Chuyện tình "làng thương binh"

Tấm tình chân thật

Nói về tình yêu cảm động không thể không nhắc đến đôi vợ chồng ông Nguyễn Văn Yểng và bà Nguyễn Thị Lịch. Ông Yểng quê Mỹ Ðức (Hà Tây cũ), nhập ngũ năm 1961. Tháng 4-1969, trong một lần hành quân cùng đơn vị ở chiến trường B3 ông bị thương do bom bi và được đưa về điều trị ở Ðoàn an dưỡng 225 (Hà Bắc cũ). Ông trải qua nhiều cuộc phẫu thuật nhưng vẫn không lấy được viên bi trong cột sống. Tháng 6-1976, ông được đưa về Khu điều dưỡng thương binh nặng Thuận Thành, và ở đó cho đến bây giờ. Ðau yếu liên miên, lúc nào người thương binh ấy cũng lo sợ chẳng ai thương mình. Thế rồi Yểng gặp cô hộ lý Nguyễn Thị Lịch, người Ninh Xá. Qua mấy lần chuyện trò, cảm mến người thương binh đẹp trai, Lịch đem lòng yêu thương. Họ dành tình cảm cho nhau, nhưng Yểng lại lo người yêu vì mình sẽ khổ, nên lưỡng lự. Cuối cùng, cô hộ lý đã  tự quyết, Yểng không thể từ chối một tình yêu chân thành như vậy. Nhưng, vượt qua được mặc cảm này, họ lại gặp sự ngăn trở khác. Gia đình Lịch nằng nặc ngăn cản con gái, vì như vậy là trao thân cho một người tàn phế. Họ lo rằng, bị thương nặng như vậy, Yểng không có khả năng sinh con, như vậy thì Lịch sẽ vất vả. Nhưng rồi không hiểu sức mạnh nào đã giúp hai người vượt qua được tất cả mọi trở ngại. Năm 1977, Khu điều dưỡng đứng ra tổ chức đám cưới cho Yểng - Lịch. Và cùng với thời gian, hai đứa con của họ, một trai một gái lần lượt ra đời.

Ðám cưới xong, đôi vợ chồng phải đối mặt với khó khăn. Bà Lịch phải vận động tìm thêm nguồn sống. Ngày nghỉ bà đạp xe lên Hà Nội lấy hàng về bán. Sau thấy chẳng thay đổi được gì, bà đi học cách mổ lợn. Chiều hôm trước đi mua lợn, ba giờ sáng hôm sau dậy một mình mổ lợn và pha thịt sẵn cho chồng bán trước cửa khu điều dưỡng rồi đi làm. Lúc đó, ông Yểng trở dậy ngồi xe lăn, nói chuyện với vợ cho vui vẻ. Cứ vậy, dù nắng mưa sấm chớp, ông Yểng cặm cụi ngồi trên xe lăn bán thịt. Trả ơn ông bà là hai đứa con đều chăm ngoan, học giỏi, thi đỗ vào đại học. Những đồng tiền thẫm đẫm mồ hôi tần tảo đã được đền đáp. Hai con tốt nghiệp ra trường, xin được việc làm. Anh con trai lớn hiện làm về ngân hàng ở thành phố Bắc Ninh, đã xây dựng một ngôi nhà khang trang định đón bố mẹ ra ở. Nhưng ông Yểng đau yếu luôn, không thể bỏ trung tâm điều dưỡng. Hiện ông còn một viên bi từ quả bom Mỹ nằm giữa xương sống. Các dây thần kinh đã quấn chặt viên bi, không gắp ra được. Viên bi đó chẳng những cướp đi sức khỏe của ông mà còn làm ông bị liệt một chân.

Gần đây, ông bà Yểng vừa dứt ra khỏi công việc mổ lợn, vì chẳng phải lo lắng nhiều cho miếng cơm manh áo như trước nữa. Bà Lịch vui mừng nói: "Chúng nó thành đạt, vợ chồng tôi vui lắm. Cuối cùng cũng không phải vất vả đêm đêm đi mổ lợn. Tôi cũng đỡ lo cho ông ấy, ông ấy đau, tôi cũng đau". Ông bà bảo, giờ đến với khu chung cư dành cho những đôi vợ chồng này sẽ thấy bình yên hơn trước. Vì nhiều cặp vợ chồng đã lo liệu xong cho con cái, nên họ đỡ vất vả hơn, không phải lao đao chạy kiếm miếng ăn từng ngày, gồng lên với những cơn đau thể xác. Lại nữa, chế độ của Ðảng và Nhà nước đối với những thương binh nặng ngày càng tốt, cho nên cuộc sống đôi phần được cải thiện.

Anh Nguyễn Văn Hoàn, con trai ông bà Yểng đã lập gia đình riêng, có hai con, tháng nào cũng đưa các con về chơi với ông bà nội hai ngày. Nói về bố mẹ mình, anh xúc động: "Tôi không tìm thấy tình yêu nào mạnh mẽ hơn tình yêu của bố mẹ tôi và các cô chú ở trung tâm này. Tình yêu và công lao của bố mẹ là niềm động viên, khích lệ cho vợ chồng, con cái tôi. Ðiều đó cũng dạy cho tôi phải sống nhân nghĩa, thủy chung". Cô con dâu thì nói: "Bố mẹ chồng tôi thật tuyệt vời!".

Vượt qua rào cản

Một tình yêu vượt qua thử thách và rào cản, đó là câu chuyện của ông Lại Cao Cử và  bà Nguyễn Thị Kim Phương. Ngày ấy, bà Phương đi học ở TP Hồ Chí Minh, có về trung tâm thực tập, làm vật lý trị liệu giúp anh em thương binh. Dạo ấy, anh Cử bị thương nặng ở lưng, chỉ nằm một chỗ. Sau này trở lại làm việc, cô điều dưỡng viên trẻ Kim Phương đã dớn dác tìm Cử, người mà trước đó mình đã chăm sóc. Kim Phương lúc đó là con của gia đình gia thế, bố là Phó hiệu trưởng Trường Cao đẳng Lao động,Thương binh và Xã hội. Thế nhưng, vì tình yêu không biên giới, mọi rào cản, ngăn cách đã được xóa bỏ. Kim Phương đã yêu thương, làm nên mái ấm bây giờ.

Ông Cử tâm sự: "Năm 1983 chúng tôi cưới nhau, bà ấy đã cho tôi hạnh phúc. Những ngày đau nhức, bà ấy tận tình chăm lo. Cưới nhau xong, chúng tôi cũng nấu rượu, nuôi lợn. Tôi đau lưng không bưng bê nặng được, nấu cám thì dùng gáo múc nước, cho lợn ăn thì múc ra chậu, đặt trên chiếc lốp ô-tô rồi kéo vào chuồng"...

Hôm tôi đến làng thì gặp ông Lại Cao Cử đang làm ổ rơm cho gà. Giờ ông chỉ làm được những công việc nhẹ nhàng như vậy, vì cái cột sống không cho phép ông làm nặng nữa, trái gió trở trời là nó đau nhức. Khách đến, ông dừng tay vào nhà rót nước. Ông nói, nếu không vì hai con đang còn học đại học thì ông cũng chẳng phải động tay động chân nữa. Cho con đi học, hai vợ chồng sẽ khó khăn. Nhưng vẫn phải cố gắng, vì chúng là kết quả của tình yêu vô biên giữa hai ông bà. Các con chẳng những là máu mủ, là điểm tựa tinh thần, là niềm an ủi của hai ông bà mà còn là hai bông hoa thơm đang khoe sắc. Nói về hai con, ông Cử vui lắm. Tất cả những giấy khen của hai con từ lớp bé đến lớp lớn đều được ông gìn giữ cẩn thận. Thỉnh thoảng hai vợ chồng lại mang giấy khen của các con ra nhìn cho đỡ nhớ, vì chúng đang học ở tận Hà Nội. Bà Phương vợ ông là người phụ nữ hiền lành, đảm đang và rất mực yêu chồng, yêu con. Bà là người "đứng mũi chịu sào", phải lo kinh tế chu cấp cho con ăn học. Ngoài công việc điều dưỡng viên ở trung tâm, bà còn làm nhiều việc khác nữa để có thêm thu nhập.

Tình yêu vượt lên tất cả

Ðược nghe những cặp vợ chồng đặc biệt ấy kể về mối tình và cuộc sống của họ, tôi không khỏi rơm rớm nước mắt.  Họ là những tấm gương về tình yêu không hề tính toán thiệt hơn. Tôi muốn kể  câu chuyện của đôi vợ chồng ông Hoàng Văn Uyên và bà Trần Thị  Hồng. Trong căn nhà tập thể đầy huân chương kháng chiến, rồi bằng khen của những lần đoạt giải giọng hát hay, bà Hồng kể chuyện cuộc đời của mình: "Tôi sinh ra và lớn lên ở miền quê Hương Sơn, còn ông ấy ở Kỳ Anh (Hà Tĩnh). Tôi đi thanh niên xung phong nhập vào Binh đoàn 12, làm nhiệm vụ trên tuyến đường Trường Sơn. Năm 1968, tôi bị thương và ngất đi. Tỉnh lại thấy mình cụt mất cả hai tay. Lúc đó, tôi và Uyên đã yêu nhau. Ðịnh không báo tin cho Uyên ở chiến trường B, chỉ mong anh ấy quên mình đi. Thế nhưng Uyên của tôi vẫn lặn lội đến tận đoàn an dưỡng tìm và qua thời gian, thử thách chúng tôi vẫn đến với nhau. Chúng tôi cưới nhau khi chiến tranh còn ác liệt...". Còn ông Uyên thì nói rằng, dù thế nào tôi cũng không thể xa rời Hồng, vì cô ấy đã là một phần đời của mình. Dù chiến tranh khốc liệt và chưa biết đến ngày nào thống nhất đất nước, hai người đã quyết định cưới nhau. Năm 1970, bà Hồng về khu điều dưỡng này, ông Uyên dính bom gần, bị nặng tai nên xin ra quân và chuyển công tác về khu điều dưỡng để tiện chăm sóc vợ, sinh con. Giờ cả hai con trai của ông bà đã trưởng thành. Anh lớn tốt nghiệp Ðại học Sư phạm, hiện là giáo viên Toán trường chuyên Bắc Ninh, cậu thứ hai tốt nghiệp Ðại học Giao thông vận tải đã đi làm được hai năm. Tình yêu của họ trải qua sự khốc liệt của chiến tranh, sự vất vả của cuộc sống thường nhật, vẫn vẹn nguyên như ngày mới yêu nhau. Câu chuyện hoàn toàn có thật mà cứ đẹp như trên phim ảnh, trong tiểu thuyết. Hằng ngày ông Uyên vẫn tự tay chải tóc, tắm rửa, thay quần áo và bón từng thìa cơm cho vợ. Bà Hồng cảm động nói: "Tôi là người hạnh phúc vì còn được có chồng và con. Nhiều người bạn của tôi đã không thể trở về"...

Ðoạn kết

Ông Ðinh Văn Sáu, Giám đốc Khu điều dưỡng thương binh nặng Thuận Thành nói: "Ở đây có rất nhiều cặp vợ chồng đặc biệt. Tình yêu của họ khiến không chỉ chúng tôi mà thế hệ các con cháu chúng tôi cũng hết mực kính phục. Ðó là chuyện thương binh lấy nữ hộ lý, điều dưỡng. Một số người không có khả năng sinh con. Rồi những đứa trẻ của lòng cao cả ra đời. Các anh lại hết lòng săn sóc, nâng niu như chính đứa con mình dứt ruột đẻ ra".

Sẽ chẳng thể nào tả hết vẻ đẹp của những tình yêu ấy. Gần 40 năm trôi qua, Làng thương binh này đã xuất hiện thế hệ thứ hai, thứ ba. Những đôi vợ chồng, những người thương binh đã coi đây là ngôi làng quen thuộc của mình. Bao nhiêu năm tháng họ đã chiến đấu, chịu đựng gian khổ, để lại phần máu thịt của mình ở lại chiến trường. Giờ về lại cộng đồng, cuộc sống, họ vẫn sống xứng đáng là Bộ đội Cụ Hồ, là những người nhân nghĩa, làm nên những bông hoa đẹp, những mùa  hoa đẹp.