Mối duyên bắt đầu để gắn bó với khoa học là cả một câu chuyện dài. BS Tạ Thành Văn có 10 năm trời xa gia đình nhỏ. Anh chỉ được về đoàn tụ với vợ con chỉ khoảng chừng 3-4 lần trong hơn 10 năm trời đó. Anh bảo đó là quãng thời gian anh chịu hy sinh rất lớn nhưng cái giá của chuỗi ngày tháng vất vả đó chính là thành công ngày hôm nay anh có được.
Anh kể, có lần vì nhớ nhà, anh xin phép thầy về Việt Nam. Thay vì sự dễ dàng gật đầu, các giáo sư hỏi anh “Nhà có việc gì à? Nhà có ai ốm đau à?”. Khi thật thà trả lời rằng vì nhớ gia đình, anh đã nhận được một sự không thoải mái từ các vị giáo sư Nhật Bản. Sau đó, khi tâm sự với người bạn nghiên cứu sinh người Nhật Bản, anh mới hiểu: với người Nhật, khi đã xác định trở thành một nhà khoa học, nghĩa là phải giấu đi cảm xúc cá nhân, phải kìm nén những nỗi nhớ. Khoa học không có chỗ cho sự xáo trộn tâm lý từ những việc bên ngoài, từ cảm xúc cá nhân. Bài học đó, anh đã giữ và dạy lại các đồng nghiệp trong Trung tâm Nghiên cứu Gen – Protein của anh. Đó chính là nguyên tắc “không mang việc nhà và tình cảm cá nhân đến cơ quan”.
Người chịu ảnh hưởng lớn nhất đến sự nghiệp nghiên cứu khoa học của anh, có lẽ là GS Tasuku Honjo – vị giáo sư người Nhật Bản vừa nhận giải Nobel 2018 với Liệu pháp điều trị ung thư bằng cách ức chế chốt kiểm miễn dịch (liệu pháp miễn dịch).
Sau khi bảo vệ Tiến sĩ tại Nhật Bản năm 1999, BS Văn nung nấu trong mình ý định phải đi Mỹ. “Khi đó nhiều người chưa hiểu ý định của tôi. Nhưng tôi thấy các giáo sư ở Nhật Bản để được phong giáo sư hầu hết phải được đào tạo ở Mỹ hoặc Tây Âu một thời gian sau khi đã có bằng tiến sĩ. Vì thế tôi quyết đi Mỹ và có hai năm học tập tại đó. Hai năm, tôi thấy mình đủ trưởng thành có thể trở về nước làm việc, được đào tạo tương đương với chuẩn mực của một người làm khoa học ở Nhật Bản. Nhưng khi đó tôi lại có mục đích mới là muốn làm việc ở phòng thí nghiệm nào đó thật danh giá trên thế giới”, BS Văn kể.
Vậy là cuộc đời anh lại đối diện với hai lựa chọn, hoặc là theo một giáo sư người Đức tại khoa Y, Trường Đại học Heidenberg, hoặc là theo Giáo sư Tasuku Honjo, khoa Y, Trường Đại học Kyoto. Thời điểm đó, anh thường xuyên cập nhật và đọc các công trình nghiên cứu trên các tạp chí y học thế giới, nên được biết về những phát minh đặc biệt quan trọng của thầy Honjo trong ngành miễn dịch học phân tử. Anh quyết định chọn trở lại Nhật Bản, và từ đây, anh đã có cơ hội được làm việc với GS Tasuku Honjo. “Lúc đó, giới khoa học Nhật Bản cho rằng sớm muộn thầy cũng có giải Nobel vì những phát minh mang tính đột phá”, anh kể. Vậy là anh có thêm gần ba năm ở lại Nhật Bản nghiên cứu về gen mã hóa enzym tham gia quá trình điều hòa tổng hợp và chuyển dạng kháng thể ở người, một phát minh đặc biệt quan trọng của giáo sư Honjo ngày đó. Đó là AID (Activation-Induced Cytidine Deaminase) có ứng dụng quan trọng trong bệmh học ung thư, suy giảm miễn dịch và bệnh tự miễn.
Với một vị giáo sư nghiêm khắc và coi trọng nghiên cứu khoa học, anh học hỏi được rất nhiều điều về cả phong cách làm việc và tư duy nghiên cứu khoa học. Trong suốt những năm tháng học hỏi đó, anh vẫn luôn không quên lời dặn của GS Nguyễn Hữu Chấn, nguyên Trưởng bộ môn hóa sinh, Trường Đại học Y Hà Nội và nguyên Vụ trưởng Vụ Khoa học và Đào tạo, Bộ Y tế rằng “làm nghiên cứu sinh như người lính đi nghĩa vụ quân sự, cố gắng học cách sử dụng các loại vũ khí như súng trường, lái máy bay, lái xe tăng, khi về nước thì tùy điều kiện để ứng dụng”.
Anh đã học tất cả những gì có thể để sắp hành trang sau 10 năm du học để về nước. Và khi trở về, anh không quên mang theo lời dặn của thầy Honjo: “Đã đến lúc bạn phải về. Nhưng về nước bạn chịu khó đi tham dự các hội nghị khoa học để tìm hiểu xem các nhà khoa học ở Việt Nam đang làm gì. Đồng thời, bạn cũng phải tranh thủ báo cáo để các nhà khoa học Việt Nam biết bạn có thể làm được gì, để cả hai phía cùng tìm nhau hợp tác”.
Trở về Việt Nam từ tháng 10 năm 2003, 15 năm nay, mỗi khi quay lại Nhật Bản công tác, anh thường dành thời gian trở lại trường xưa, gặp lại các thầy cô giáo cũ. Thường thời gian mỗi lần gặp cũng chỉ chừng 15 phút nhưng cũng đủ để thầy trò trao đổi về các vấn đề khoa học mà mỗi bên đang làm, định hướng phát triển của nền khoa học mỗi nước và thảo luận cơ hội đào tạo, hợp tác. Những kiến thức thu nạp trong thời gian ngắn ngủi đó giúp anh có thêm những định hướng mới cho nghiên cứu khoa học tại Việt Nam.